CÁC PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU VÀ GIÁO DỤC TRẺ TỰ KỶ

Hiện nay, cũng có một vài trường chuyên biệt dành cho trẻ tự kỷ, vấn đề còn lại là nội dung chương trình và chi phí mà gia đình phải bỏ ra vì rõ ràng một ngôi trường tốt thì không thể có học phí rẻ, nhưng vẫn có những trường chưa tốt, mà học phí lại không rẻ chút nào! Đó là vấn đề mà phụ huynh cần phải nhận ra. Nhưng điều quan trọng nhất là dù ở bất kỳ cấp độ nào, sự tham gia của phụ huynh, hay những biện pháp áp dụng tại gia đình mới là điều quan trọng giúp trẻ tự kỷ có thể ổn định và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cần loại trừ những biện pháp hướng dẫn cho phụ huynh với một chi phí quá cao, vì thực chất giá trị của các biện pháp là sự kiên nhẫn, chừng mực và lâu dài cùng với tấm lòng của phụ huynh là những thứ không thể mua được với bất cứ giá nào. Còn các kỹ thuật, các công cụ, các nguyên tắc, hay giáo án chỉ là những thứ phụ thuộc và có rất nhiều cách khác nhau. Điều quan trọng là các phương pháp đó có phù hợp với tình trạng của con mình hay không, điều này chỉ có được sau những quan sát, chẩn đoán trực tiếp của các chuyên viên với đứa trẻ, để từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp với một chi phí vừa phải.


Vậy phụ huynh và người chăm sóc phải hiểu được con mình đang gặp phải vấn đề gì từ đó mới có kế hoạch giúp trẻ. Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển tồn tại suốt cuộc đời, thường xuất hiện trong 3 năm đầu đời. TK là do rối loạn thần kinh, gây ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất cứ cá nhân nào không phân biệt giới tính, chủng tộc hoặc điều kiện kinh tế - xã hội. Đặc điểm của Tự kỷ là những khiếm khuyết về tương tác xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ và có hành vi, sở thích, hoạt động mang tính hạn hẹp, lặp đi lặp lại”. Hiện nay có nhiều phương pháp khác nhau phụ huynh người chăm sóc giáo dục có thể lựa chọn linh hoạt sáng tạo phù hợp nhất cho trẻ.

 

                                                                    Ảnh nguồn từ tập huấn Câu lạc gia đình bộ trẻ tự kỷ Quảng Ninh

Phương pháp ABA (Applied Behavior Analysis – Phân tích hành vi ng dng). Đây là một trong số những phương pháp hữu hiệu  để dạy trẻ tự kỷ. Do tác giả Ivar Lovaas và các bạn đồng nghiệp đã nghiên cứu và phát triển vào những năm 1990. Những kĩ năng đặc biệt được dạy bằng cách chia các hành vi ra thành từng bước nhỏ, dạy một bước trong một thời điểm và củng cố bước đó. Nhiều năm qua, ABA được sử dụng để dạy các cá nhân với những khả năng khác nhau, và có thể được sử dụng trong tất cả lĩnh vực: tự chăm sóc, lời nói và ngôn ngữ, kĩ năng cư xử xã hội.

  Các thành phần của mỗi hành vi là:Tiền đề: một đề nghị, yêu cầu được minh hoạ bằng lời nói hoặc động tác cơ thể, Hành vi: đứa trẻ đáp ứng, Kết quả: phụ thuộc vào hành vi là gì. Kết qủa có thể bao gồm củng cố cho hành vi tốt, không đáp ứng được hoặc sửa hành vi sai Ưu đim: Có kết quả nhất quán khi dạy những kỹ năng và hành vi mới cho trẻ tự kỷ. Cách dạy rõ ràng, Chia nhiệm vụ thành phần nhỏ, ñơn giản. Khuyết đim: Cần nhiều thì giờ (30-40 giờ/tuần), Ảnh hưởng ñến thời gian với gia ñình, Không giúp trẻ tự kỷ ñáp ứng với hoàn cảnh mới.

Phương pháp TEACCH (Treatment and Education Autistic Children Communication Handicap - Tr liu và giáo dc tr t k và tr khuyết tt v giao tiếp) TEACCH là một cách tiếp cận theo suốt cuộc đời nhằm giúp những người bị tự kỷ mà mục tiêu của nó là trang bị cho trẻ một cuộc sống hữu ích trong cộng đồng. Cách tiếp cận này bắt đầu cung cấp các thông tin thị giác, cấu trúc và sự dự đoán vì người ta nhận ra là kênh học tập thuận lợi nhất là thông qua thị giác. 

 Khi áp dụng pháp cần chú ý những nguyên tắc: Môi trường nên thích ứng với trẻ tự kỷ, chứ không phải trẻ tự kỷ thích ứng với môi trường, tập trung vào cá nhân, xây dựng trên những kỹ năng và sở thích có sẵn. Chương trình bao gồm: đánh giá, kế hoạch giáo dục cá nhân, đào tạo kỹ năng xã hội, kỹ năng nghề nghiệp, hướng dẫn phụ huynh, tư vấn nhà trường. Cách dạy có kết cấu bao gồm: …chương trình, tổ chức phòng lớp và vật liệu, và sự hướng dẫn đơn giản, rõ rệt. Được thiết kế để hoàn chỉnh những kỹ năng giao tiếp, xã hội và xử lý. Khác với chuẩn phát triển ‘bình thường” - bắt đầu ở mức ñộ trẻ và giúp trẻ phát triển ñến mức cao nhất có thể

Các khả năng học hỏi của trẻ được đánh giá bằng PEP: những biểu hiện tâm lý giáo dục. Phương pháp có 9 lĩnh vực can thiệp và chia theo từng giai đoạn tuổi từ 1 đến 6 gồm: Bắt chước (Imitation), Nhận thức (Perception), Vận ñộng thô (Gross motor). Vận động tinh (Fine Motor). Phối hợp mắt và tay (Eye-hand intergration). Kỹ năng hiểu biết (Cognitive performance). Kỹ năng ngôn ngữ (Verbal performance). Kỹ năng tự lập (Self-help). Kỹ năng bắt chước xã hội (Social performance). Ưu đim:  Cả một chương trình đáp ứng ứng với các nhu cầu của trẻ

.Trẻ tự kỷ hiểu các yêu cầu và cách Tập trung vào những kỹ năng của trẻ, chứ không chỉ nhìn những khuyết ñiểm. Khuyết đim. Rất gò bó, tập trung vào những đồ phụ tổ chức (bảng, chương trình). Cần nhiều nhân lực để thực hiện.

Phương pháp PECS (Pictures Exchange Communication System - H thng giao tiếp trao ñổi hình). PECS là một công cụ tốt giúp trẻ giao tiếp không lời. PECS cho phép trẻ lựa chọn và giao tiếp nhu cầu. khi trẻ có thể giao tiếp và thể hiện nhu cầu của chúng, thông thường các hành vi có thể giảm nhẹ và trẻ trở nên vui vẻ hơn. PECS có thể được dùng trong nhiều cách khác nhau để giao tiếp. Điển hình PECS là các bức tranh về đồ vật (thức ăn, đồ chơi..) Khi trẻ muốn một trong những thứ đó, trẻ đưa tranh cho đối tượng giao tiếp như bố, mẹ, nhà trị liêụ, người trông nom hoặc đứa trẻ khác. Đối tượng giao tiếp sau đó sẽ đưa cho trẻ đồ chơi hoặc thức ăn để củng cố giao tiếp. Cuối cùng các bức tảnh có thể ñược thay thế bằng các từ và câu ngắn.  Việc sử dụng PECS là một quá trình kéo dài và phức tạp, trải qua nhiều tháng để hoàn thiện. Đối với cuộc sống hàng ngày với một ñứa trẻ không có ngôn ngữ nói và cũng không sử dụng ngôn ngữ kí hiệu, PECS có thể hoàn toàn là một sự trợ giúp cho sự thiếu ‘phương tiện’ giao tiếp.

Phương pháp Floor Time (da trên s phát trin, khác bit cá nhân, và mi quan h/cùng chơi vi tr)

  Phương pháp này do hai bác sĩ tâm thần nhi, Stanley Greenspan và Serena Weider ñề ra. Chương trình gồm ba yếu tố: Developmental (Dựa trên sự phát triển); Individual Differences (khác biệt cá nhân); Relationship-based (Dựa trên mối quan hệ)   Chương trình gồm 3 phần: Thời gian dưới sàn (thời gian chủ yếu khi bạn theo sau sự chủ động của con bạn (bố mẹ theo sát con và để trẻ dẫn đi, để trẻ chủ động), cố gắng để xây dựng một hướng của ý muốn và dòng chảy của sự tương tác như là bạn bị theo đuổi, bị lôi cuốn và bị ve vãn bởi cảm xúc và năng lượng của mình). Hiểu và can thiệp vào với những nhu cầu khác biệt về giác quan của con bạn (nắm bắt được trẻ tỏ ra khác biệt như thế nào trong cách mà chúng nói và nghe, tiếp nhận thông tin từ giác quan và cảm giác, cách mà chúng nhìn, tìm thấy và tìm kiếm, cách mà chúng dự kiến và tiếp tục hoạt động của chúng đối với người khác hay với đồ chơi). Một phần kết cấu trò chơi (bạn tạo ra cơ hội để chơi và học những cảm xúc nền tảng bằng việc khai thác động cơ thúc đẩy con bạn). Trẻ nên được thấy khả năng để được điều chỉnh và được hứa hẹn (phần thưởng) và giao tiếp mắt trước khi xây dựng những kỹ năng riêng biệt hơn. Ưu điểm:Nhằm phát triển cảm xúc thay vì phát triển trí tuệ, khuyến khích trẻ chủ ñộng tương tác, Phụ huynh đóng vai trò chính trong việc trị liệu. Khuyết điểm: Không dạy cách học theo yêu cầu của người lớn, hơi khó tương tác ban đầu với trẻ.

Phương pháp social story (nhng câu chuyn xã hi - CCXH)

 Phương pháp CCXH sử dụng những CCXH làm công cụ ñể dạy KNXH cho trẻ mắc hội chứng Tự kỉ và trẻ khuyết tật. CCXH là câu chuyện ngắn tập trung vào việc mô tả một chi tiết hoặc một hoạt ñộng nào ñó với các ñiểm chính sau:

           Những câu nói mang tính xã hội: chào hỏi, xin phép, xin lỗi…Những sự kiện hoặc những tương tác mà cá nhân có thể chờ ñợi trong những tình huống đó. Những hành động và những tương tác mà cá nhân nên sử dụng trong tình huống đó. Nhìn chung, đây là phương pháp được đánh giá cao trong việc hỗ trợ rèn luyện KNXH cho trẻ khuyết tật và đặc biệt là trẻ mắc hội chứng Tự kỉ. Bản thân các tình huống xã hội rất phong phú, đa dạng và thường biến đổi linh hoạt. Trẻ bình thường cũng phải học và rèn luyện rất nhiều mới có thể phản ứng phù hợp trước các tình huống xã hội gặp phải. Do đó nếu chỉ được nghe giảng giải, giải thích, khuyên răn…bằng lời trẻ mắc hội chứng Tự kỉ sẽ không hiểu hết được bản chất của vấn đề. CCXH cung cấp cho trẻ mắc hội chứng Tự kỉ những cách tiếp cận gần nhất với các tình huống xã hội nghĩa là CCXH cung cấp cho trẻ những cách tiếp cận với các tình huống xã hội thông qua đoạn chuyện ngắn gọn, đơn giản, đôi khi còn được kết hợp với tranh ảnh thực hoặc qua cả băng video quay các tình huống thực.

          CCXH tạo cho trẻ mắc hội chứng Tự kỉ  cơ hội thực hành các kỹ năng một cách thường xuyên. Những CCXH được xây dựng dựa trên những tình huống xã hội gần gũi, thường nhật mà đứa trẻ thường bối rối, khó chịu khi gặp phải. Do đó, những tình huống xã hội này sẽ được lặp đi lặp lại nhiều lần trong một khoảng thời gian ngắn (một giờ, một tiết học, một buổi học, một ngày học, một tuần học…). Đây chính là điều kiện thuận lợi để trẻ có thể thực hành ứng dụng những kỹ năng được học trong CCXH một cách thực tế nhất. Giáo viên cũng qua đó dễ dàng đánh giá được hiệu quả của CCXH ñến hành vi, thái độ của trẻ trước tình huống mà trẻ gặp phải. Có thể thấy phương pháp CCXH ñã giải quyết khá triệt ñể những khó khăn, bối rối, lo lắng của trẻ mắc hội chứng Tự kỉ trước các tình huống xã hội thường ngày thông qua việc: giải quyết vấn ñề khó khăn trong việc hiểu cảm xúc, suy nghĩ, dự định của người khác một cách trực diện; cung cấp thông tin về một số tình huống xã hội theo hình thức cấu trúc cố định; cung cấp cho trẻ những cách tiếp cận gần nhất với các tình huống xã hội; tạo cho trẻ mắc hội chứng Tự kỉ cơ hội thực hành các kỹ năng một cách thường xuyên. Như vậy, việc sử dụng CCXH vào rèn luyện KNXH cho trẻ mắc hội chứng Tự kỉ đem lại những hiệu quả nhất định đối với sự phát triển ở hiện tại và tương lai của trẻ. Trên thế giới đây là một phương pháp giáo dục trẻ mắc hội chứng Tự kỉ phổ biến. Còn tại Việt Nam việc xây dựng và sử dụng CCXH còn gặp nhiều khó khăn. 

Phương pháp SI ( Sensory Integration - Hòa nhp cm giác)

 Các giác quan của chúng ta đưa cho chúng ta thông tin mà ta cần để nhân thức thế giới. các giác quan lấy thông tin từ các hiện tượng cả ngồi và trong cơ thể chúng ta. 5 giác quan: nghe, nhìn, nếm, ngửi, sờ, phản ứng với các hiện tượng đến từ bên ngồi cơ thể. Trị liệu hồ hợp giác quan là công cụ có giá trị để dạy trẻ làm thế nào để tương tác với môi trường xung quanh.

Trẻ tự kỷ có thể có những phản ứng không đủ hoặc quá nhạy cảm, hoặc thiếu khả năng hòa hợp các giác quan. Vì vậy có một số trẻ tự đập đầu vào tường hoặc quay tròn. Phương pháp hoà nhập cảm giác tập trung vào giúp trẻ bớt nhạy cảm, giúp tổ chức lại thông tin cảm giác 

Phương pháp OT (Occupatoin Therapy - Hot ñộng tri liu)

 OT đưa ra những hỗ trợ cho trẻ tự kỷ mà có khó khăn trong các giác quan, vận động, cơ lực và các kĩ năng thăng bằng. Nhà trị liệu và giáo viên thường sử dùng mát-xa, bạt lò xo, ván trượt, bóng cao su to, bể bơi..tất cả những thứ này được dùng để trẻ trở nên nhận thức hơn về cơ thể mình và có khả năng sử cơ thể trong các cách khác nhau.

Phương pháp “Trò chơi không định hướng” 

 Trò chơi không định hướng giống như tương tác và chơi – nói chung không ép buộc, không có cấu trúc và vui vẻ. nó không giống như chơi bình thường bởi vì khi bạn là giáo viên, bạn đóng vai trò như một đối tượng chơi tích cực của trẻ. Nhiệm vụ của giáo viên là theo sự dẫn dắt của trẻ và chơi bất cứ cái gì mà trẻ thích và làm điều này theo cách sao cho khuyến khích trẻ tương tác với mình. Điều này có nghĩa rằng nếu muốn trẻ đẩy xe ô tô, bạn đẩy xe ô tô với trẻ, đưa trẻ xem một cái ô tô đi nhanh hoặc một cuộc thi xem ai nhanh hơn. Nếu cần thiết, lấy ô tô của bạn đâm vào ô tô của trẻ - làm những gì để tạo nên sự tương tác. Vai trò của bạn là trở thành người giúp có tính xây dựng và khi cần thiết, khiêu khích bằng cách làm bất cứ điều gì để đưa hoạt động của trẻ vào sự tương tác lien cá nhân. 

Phương pháp “Tr liu ngôn ng và li nói”

 Trẻ em tự kỷ thường không giao tiếp bằng cách dùng lời nói hoặc bất cứ loại ngôn ngữ nào, ví dụ như tiếp xúc mắt và ngôn ngữ cơ thể. Nếu như một đứa trẻ không muốn giao tiếp, nó sẽ không khám phá ra ñược khả năng phát âm của mình, học các âm thanh mới hoặc nghe ngôn ngữ nói xung quanh mình. Điều này sẽ dẫn sự chậm phát triển ngôn ngữ và kĩ năng giao tiếp và trẻ sẽ thấy rất khó khăn để thể hiện bản thân mình. Điều này thường dẫn ñến sự thất vọng cho trẻ.Trị liệu ngôn ngữ rất quan trọng trong phát triển chức năng cho trẻ và nó nên được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của tất cả những trẻ có khó khăn về lời nói và ngôn ngữ. Các lĩnh vực cần tập trung như: kĩ năng nghe và chú ý, kĩ năng chơi, kĩ năng xã hội, hiểu xã hội - diễn đạt ngôn ngữ 

Phương pháp “Tr liu nước”

 Đây là hoạt động  trị liệu có ý nghĩa hỗ trợ rất tích cực cho sự phát triển của trẻ tự kỷ. Trị liệu nước giúp trẻ tự kỷ giảm căng thẳng, giảm bớt hành vi không mong muốn, tăng khả năng tương tác và giao tiếp. nước có tác động tích cực đến giác quan của trẻ tự kỷ, tạo  ra môi trường an toàn cho trẻ 

Phương pháp “Computer – Game”

 Cho trẻ làm quen với máy tính để phát hiện ra  khả năng tiềm tàng của trẻ. Ngoài ra một số trẻ gặp khó khăn về ngôn ngữ sẽ tăng khả năng giao tiếp thông qua sử dụng máy vi tính

Phương pháp “Tr liu bng âm nhc, m thut, động vt”

          Giúp tăng triển những kỹ năng giao tiếp bằng cách phát triển tương tác xã hội và giúp trẻ cảm thấy thành công. Trị liệu bằng mỹ thuật và âm nhạc giúp hoà hợp cảm giác, làm kích thích cảm giác, thị giác, và thính giác. Trị liệu mỹ thuật có thể giúp trẻ diễn tả bản thân mình bằng cách không dùng lời nói nhưng sử dụng biểu tượng. Trị liệu bằng âm nhạc tốt cho sự phát triển lời nói và khả năng nghe hiểu ngôn ngữ: các bài hát ñược sử dụng để dạy ngôn ngữ và tăng khả năng kết hợp từ. Trị liệu với động vật (cưỡi ngựa, bơi với cá heo) có những ưu điểm thể lý và cảm xúc - tiến bộ khả năng phối hợp vận động, tăng cảm giác an toàn và tự tin. 

Như vậy, có rất nhiều những phương pháp khác nhau để trị liệu cho trẻ tự kỷ. Tuy nhiên không có một phương pháp nào là vạn năng có thể phù hợp cho tất cả trẻ tự kỷ. Tuy có những ñặc điểm giống nhau, nhưng mỗi trẻ tự kỷ là độc đáo, có tính nét khác biệt. Trong trị liệu cho trẻ tự kỷ cần có sự kết hợp của những phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào tình trạng, mức độ, đặc điểm, khả năng, nhu cầu của mỗi trẻ. Và bước ñầu quan trọng nhất là phải tìm hiểu trẻ (sở thích, thói quen, hành vi, v.v.), đánh giá được mức độ, khả năng của trẻ rồi sau đó mới có thể áp dụng các phương pháp phù hợp.

Phương pháp “More than words”

  Đây là phương pháp rất phổ biến được áp dụng để nuôi dạy trẻ tự kỷ tại gia đình Dựa vào sở thích của trẻ mà cha mẹ có thể hiểu 4 giai đoạn giao tiếp của trẻ: tự phát, yêu cầu, giao tiếp sớm và đối tác. Từ đó thiết  lập mối quan hệ với trẻ, phát triển khả năng giao tiếp và nhận thức của trẻ.

Phương pháp gồm 12 mục: Học biết thêm về sự giao tiếp của con bạn, đặt mục tiêu bằng cách dùng hiểu biết của bạn về con bạn, theo sư điều khiển của trẻ, cùng chơi luân phiên, nối kết các trò chơi có người, giúp trẻ hiểu những gì bạn nói,dùng công cụ hỗ trợ nhìn, R.O.C.K.trong công việc thường quy (Repeat.Ofer.Cue.Keep- Nhắc Lại.Tạo Cơ Hội. Gợi Ý. Luôn Giữ), đem sách lên lấy ñồ chơi ra, kết bạn.

          Công cụ để dạy trẻ là hệ thống tranh ảnh, thông qua kênh thị giác trẻ sẽ tiếp thu thông tin một cách nhanh chóng. Nguyên tắc của phương pháp này là: nói ít hơn và nhấn mạnh, chậm rãi, và chỉ vào.

 Tóm li: Mỗi phương pháp có ưu khuyết điểm riêng và mỗi trẻ đều có điểm mạnh gặp những vấn đề rối nhiễu khác nhau về hành vi,tăng động, chậm…Vì vậy giáo viên và cha mẹ phải linh hoạt, sáng tạo, vận dụng phù hợp với khả năng, nhu cầu của trẻ. Cha mẹ nên kiên trì và chọn phương pháp phù hợp lên kế hoạch cụ thể dựa trên đánh giá thực của trẻ.

                                                                                                                                                       Nguyễn Thị Phương - Trung tâm CTXH Quảng Ninh

 

Tin liên quan
Ăn đồ lạnh khiến trẻ bị táo bón
Dậy thì sớm ở trẻ: Cha mẹ chớ coi thường!
Phòng bệnh mùa thu cho bé trước khi quá muộn
Thiếu canxi trẻ sơ sinh có thể ọc sữa, vặn mình
Sự phản xạ kỳ diệu của trẻ sơ sinh
Đoán bệnh cho bé qua màu phân đi tiêu
Bé bị nổi mụn nước sau khi tắm bằng lá chè xanh và lá đào, em nên xử trí như thế nào?
Kinh nghiệm chọn sữa tắm cho bé yêu
Những loại thuốc không nên dùng cho sĩ tử
Chứng lõm ngực bẩm sinh: những tác động xấu đến sức khỏe và cách điều trị
Thư viện ảnh
Liên kết
Thông kê truy cập
Click to see detail of visits and stats for this site
Đánh giá website


Bản đồ